LIVE VIDEO

Sự Thật Về Hồ Chí Minh (Video)

Qúy vi muốn download về xem DVD player tai nhà & chuyển cho nhiều người xem, link dứơi đây qúy vi có thể download ve & join lai . Cám ơn nhiều .

Links ISO Gồm Có 10 Links Mổi Links là 446.46 MB


Tap 001: http://www.megaupload.com/?d=31NFNGVD

Tap 002: http://www.megaupload.com/?d=5O1RLZAY

Tap 003: http://www.megaupload.com/?d=956Q8E4E

Tap 004: http://www.megaupload.com/?d=8R6Y4YF8

Tap 005: http://www.megaupload.com/?d=5NJJS909

Tap 006: http://www.megaupload.com/?d=7LH79OYU

Tap 007: http://www.megaupload.com/?d=ZTUJYV0A

Tap 008: http://www.megaupload.com/?d=MACPAQPA

Tap 009: http://www.megaupload.com/?d=E4QZ9767

Tap 010: http://www.megaupload.com/?d=3KWFIE34


31.07.09

Từ mũi Sa Vĩ nhìn về Móng Cái...

Default Từ mũi Sa Vĩ nhìn về Móng Cái :Trung Quốc làm chủ, Việt Nam làm thuê

Ðã rong ruổi qua nhiều miền biên ải nhưng mỗi khi quay về Trà Cổ lòng cứ thắt lại. Dã tâm của phương Bắc cỏ cây nước Nam ngàn năm khắc cốt. Cha ông đã ngã xuống để rừng dương ôm chặt biển nước Nam, thây vạn người giữ từng tấc đất để giờ đây kẻ hèn nhát, luồn cúi dâng rẻ bờ thiêng đất tổ cho láng giềng tham lam. Mũi Sa Vĩ vẫn là đất của Việt Nam, nhưng... Tôi về thăm Trà Cổ vào những ngày cuối Tháng Bảy dương lịch, khi cả nước tổ chức 'về nguồn', đại giỗ cho những người con đất Việt đã chiến đấu và hy sinh trong các cuộc chiến tranh. Duy chỉ có vành đai biên giới phía Bắc này khói hương không được tỏa. Ba mươi năm qua những con người nằm xuống trong những cuộc chiến đấu với bọn xâm lược Trung Quốc không được ghi nhận, ở nghĩa trang, trên bia mộ, trong sách sử và truyền thông cả nước không được nhắc đến. Có những quá khứ bị buộc phải bịt kín và lờ đi để phục vụ cho lợi ích hiện tại, nhưng tương lai sẽ như thế nào sau những gì đang diễn ra. Có thể lâu lâu tôi về đây mà ngây ngấy đâm lo, rồi nỗi lo của tôi cũng vơi đi theo nhịp sống hối hả của thị thành, nhưng những người dân miền biên ải thì đêm chẳng yên giấc, nỗi lo mất nước luôn thường trực như những gì buộc họ phải khắc cốt ghi tâm. Ðứng từ mũi cực Đông Sa Vĩ phóng tầm mắt về phía Ðông Bắc có thể trông thấy cột mốc biên giới trên biển Việt-Trung, cứ vài phút lại thấy canô của lực lượng biên phòng phóng vút trên mặt sóng. Bên kia vùng biển của Trung Quốc, những cảng biển cầu tàu hiện đại và những công trình kiên cố trải dài trắng rực cả vành đai biên giới. Trên một hải phận có thể thu gọn vào tầm mắt này vẫn thường diễn ra xung đột, không ai khác chính người dân đã trực tiếp đấu tranh, phản kháng các vụ ngư dân Trung Quốc vi phạm chủ quyền, thả lưới quăng thuốc nổ trên hải phận của ta, hút cát dọc sông biên giới, xâm phạm ngư trường một cách táo tợn dù lực lượng biên phòng hai nước tuần tra 24/24. Một ông lão ở làng chài nhìn thời vận mà thốt lên, “Danh nghĩa là đất của mình nhưng Trung Quốc đã thuê trong 50 năm tới, không chỉ Trà Cổ, Móng Cái, mà cả cái tỉnh Quảng Ninh này, từ cái sân golf, khách sạn, các khu trung tâm mua sắm, quảng trường, cho đến cái quán ăn vỉa hè đều có chủ là người Trung Quốc. Sống trên đất Việt nhưng người Việt chỉ là kẻ làm thuê lại phải tiêu dùng mọi thứ hàng hóa của Trung Quốc thì có đau không, có lo không?” Quảng trường Hòa Bình ở thành phố Móng Cái do người Trung Quốc làm chủ. (Hình: Thiên Thư/Người Việt) Ðình Trà Cổ nằm khiêm tốn so với những công trình của người Trung Quốc. (Hình: Thiên Thư/Người Việt) Vành đai biên giới Việt-Trung. (Hình: Thiên Thư/Người Việt) Mũi Sa Vĩ-Trà Cổ vẫn là của ta nhưng chuyện gì đang xảy ra nơi đây? Ngày trước, đứng từ mũi Sa Vĩ địa đầu phía Ðông của Tổ quốc có thể chiêm ngưỡng được vẻ đẹp của bờ biển Trà Cổ cong và dài 17 cây số được mệnh danh là thơ mộng nhất Việt Nam. Nhưng bây giờ nhìn từ bức phù điêu Trà Cổ chỉ là một bãi lầy xộc xệch, bờ biển bị băm nát, rào kín bởi các dự án của Trung Quốc, có chăng chỉ là hai cây đa do ông Trần Ðức Lương (cựu chủ tịch nước) và Nguyễn Tấn Dũng (đương kim thủ tướng) trồng, nó ốm yếu trước gió biển Ðông Bắc thổi vào. Gần đó là bức phù điêu hình 3 ngọn phi lao ghi câu thơ “Từ Trà Cổ đến rừng dương đến Cà Mau rừng đước...” của nhà thơ Tố Hữu mà nhiều ý kiến cho rằng ở vị trí này nên khắc bài thơ Nam Quốc Sơn Hà, đó mới là khí phách của dân tộc Việt Nam. Bạc nhược thay! Án ngữ mũi Sa Vĩ ngày nay là sân golf 18 lỗ bành trướng của Trung Quốc. Ðể lấy đất làm sân golf này, người ta đã cho di dời cả ngôi miếu thờ thần hoàng làng, rồi bứng cả đồn biên phòng nằm sát mép biển vào sâu trong bờ. Bao quanh sân golf là rừng phi lao cao kín, lớp ngoài là dây kẽm gai che chắn mọi sự tò mò từ bên ngoài. Sân golf án ngữ, khách sạn bao vây đã khiến làng chài Trà Cổ thay đổi đi nhiều. Giờ đây làng chài đã hoang vắng, ngư phủ đã thôi ra khơi, một số chuyển sang nghề nuôi thủy sản, chủ yếu là tôm nhưng từ khi sân golf hoạt động khách sản mọc lên như nấm mùa mưa thì cá tôm mỗi năm mỗi thất, môi trường càng ô nhiễm, vì nước thải từ sân golf và khách sạn đều được tuồn thẳng ra biển, bà con đã phản ánh nhiều nhưng chẳng cơ quan nào đứng ra cứu giúp. Có chăng chỉ là biên bản kết luận nước thải từ sân golf quốc tế Móng Cái đạt tiêu chuẩn và được Sở Khoa Học-Công Nghệ Quảng Ninh cho phép thải trực tiếp ra biển. Cũng xin nói thêm, từ Vịnh Hạ Long đến Trà Cổ, tất cả các khách sạn lớn ven biển, hầu hết có vốn đầu tư của Trung Quốc, đều được phép đặt ống nước thải đổ trực tiếp ra biển, cạnh đó thì khách du lịch vẫn bơi tắm hồn nhiên, với kiểu làm du lịch này thì quá vô nhân đạo với một kỳ quan thế giới. Trong khi đó, phía Việt Nam đã cho phép phía Trung Quốc đầu tư xây dựng thêm một số cơ sở hạ tầng như khách sạn 5 sao, gắn kết với hoạt động của sân golf đã có, bờ biển Trà Cổ đang và sẽ tiếp tục được quy hoạch và kêu gọi nhà đầu tư Trung Quốc vào khai thác. Những gì cha ông để lại, đã phải đánh đổi bằng xương máu để gìn giữ thế mà tại sao người ta lại nỡ đối xử với Sa Vĩ như thế?! Từ mũi Sa Vĩ theo con đường nhựa đến mái đình Trà Cổ, hai bên đường đã thay đổi nhiều, nhà cao tầng, khách sạn nhà trọ mọc lên nhiều, nhưng vẫn thấp thoáng những cụ già ngồi vá lưới trong những căn nhà ọp ẹp buồn đến cay mắt. Trà Cổ đã thay đổi rất nhiều nhưng ngôi đình Trà Cổ là vẫn thế gần 600 năm qua. Nếu đình Trà Cổ là báu vật là cột mốc khẳng định chủ quyền văn hóa của Việt Nam tại vùng biên ải này thì người dân Trà Cổ sống làm người nước Nam, có chết vẫn “thẳng người” làm ma nước Nam như một bô lão trong làng đã khẳng định. Tôi vào đình thắp nhang rồi cùng lũ trẻ xem bài chòi, những câu ca dao, những hồi mõ dài vang lên mỗi khi có chòi nào “tới” khiến tim tôi rung lên, những đôi mắt ánh lên nụ cười, đó là thứ tình yêu thiêng liêng tôi tìm thấy nơi đây của người Trà Cổ... Thành phố Móng Cái ngày nay Rời Vịnh Hạ Long trong cơn mưa chiều lất phất, dự tính sẽ đến Móng Cái sau 4 giờ ngồi xe nhưng kẹt xe và đường xấu khiến hành trình gian nan này kéo dài gần 6 tiếng. Ðoạn đường này có lẽ không dành cho những người yếu tim. Ðường đến Móng Cái đã xuống cấp trầm trọng do những chiếc xe container tải hàng từ Trung Quốc về đã ngày đêm cày xới con đường này không thương tiếc. Con đường đèo vốn hẹp và nhiều cua gắt liên tục nhưng các các bác container xứ này chẳng ai nhường ai, đua, vượt hơn cả trên phim hành động. Nguy hiểm rình rập nhưng dân 3 miền vẫn rủ nhau về Móng Cái như trẩy hội, kẻ không ruộng nương tha phương lên đây làm cửu vạn, người có vốn lên đây đánh hàng đi buôn. Xứ biên ải này không phải là nơi dễ kiếm tiền như người ta nghĩ. Làm cửu vạn hay đứng bán hàng thuê cho chủ Trung Quốc cũng chẳng đơn giản chút nào. Ðồng tiền kiếm được nơi đây là đồng tiền mồ hôi và máu. Thế nhưng, người ta vẫn bỏ quê ra đây kiếm tiền, theo họ dù vất vả thay vì ở quê đói hả họng. Có người để vợ, để chồng, có gia đình dắt díu nhau mướn nhà thuê tạm bợ, rồi cũng qua ngày. Người ta chưa có số liệu thống kê có bao nhiêu cửu vạn ở đất Móng Cái với gần 10 cái chợ và trung tâm mua sắm này. Sáng mắt ra đã thấy họ khuân vác những núi hàng hóa như diễn xiếc. Chiều về cả nhà loay hoay với miếng thịt mỡ ăn quẹt ba ngày vẫn còn, ốm gục cả người nhưng vẫn cày khỏe như trâu. Thế mà bọn chủ người Tàu nói với tôi rằng chúng không thích mướn lao động người Việt vì người Việt lười hơn người của nó, nó chỉ cho thấy cái quảng trường Hòa Bình gần cửa khẩu được phía nó xây dựng với tốc độ nhanh chóng mặt, lao động của nó làm việc cật lực mà chi phí lại thấp hơn người Việt. Ðỡ vất vả hơn cửu vạn có lẽ là những người bán hàng thuê cho chủ người Tàu ở chợ Trung Tâm Móng Cái. Chợ này chỉ họp từ 8 giờ sáng đến 12 giờ là đóng cửa vì chủ người Tàu phải về bên kia. Trung bình mỗi tháng tiền lương của người bán hàng là một triệu đến một triệu hai, nhưng đòi hỏi phải biết tiếng Tàu, nhanh lẹ, vui vẻ, khôn khéo. Công việc tuy nhẹ nhàng nhưng những người bán hàng thuê thường kiếm thêm một công việc nữa làm thêm vào buổi chiều nếu muốn tồn tại ở đất này. Ðêm xuống, trên phố chỉ còn lại những người bán hàng rong, du khách và người có tiền, còn những người lao động nghèo đã sập cửa trọ ngủ sớm để sáng mai dậy sớm đi cõng hàng trên lưng. Chợ đêm Móng Cái đông vui náo nhiệt với những gian hàng quần áo, giày dép, hàng lưu niệm giá rẻ, cạnh đó là khu ẩm thực với các món ăn kiểu Tàu, nào là rau muống nướng, nào là xì dầu và ngập đầy tỏi sống trên bàn ăn. Cũng thật lạ, hầu hết chủ các quán ăn, nhà hàng ở thành phố này đều là người Tàu, còn phục vụ là người Việt. Ở các quán nhậu ở chợ đêm thường tập trung thanh niên choai choai người Việt, ăn nhậu no say, rồi phóng xe bạt mạng không nón bảo hiểm, thỉnh thoảng chúng dừng lại đánh lộn, đâm chém, gái bán hoa giành khách cũng đấu đả khiếp rợn. Không thể không nhắc đến những người Việt giàu có ở mảnh đất này, nhìn những chiếc Mẹc, Audi, Lexus, BMW đời mới lướt như mắc cửi quẩn quanh thành phố cũng đủ biết họ ăn nên làm như thế nào, biệt thự mọc lên như nấm, người ta đua nhau đầu tư quy hoạch các khu biệt thự vườn. Nhưng ở vùng biên ải này tiền kiếm được đa phần là từ buôn hàng lậu và buôn tiền và từ tiền mà ra đôi khi đi tù, ăn đạn cũng do tiền. Ở các quán ăn, nhà hàng sang trọng thì càng vắng bóng người Việt, nếu có thì cũng là tay chủ lớn, luôn cặp kè cùng các cô bé chưa quá hai mươi. Các cô xinh chẳng kém gì mấy em “chân dài” Hà Thành, cũng thanh lịch, cũng sành điệu, cũng điêu ngoa và giang hồ bậc nhất. Trà Tàu và tỏi là những thứ thường trực trên bàn ăn, còn nước mắm thì chẳng bao giờ xuất hiện nơi đây, nó gần như bị xóa sổ khỏi khẩu vị của người Việt ở Móng Cái, ngay cái thứ nước chấm của món gỏi cuốn khá ngon trong chợ Móng Cái cũng được người ta đặc chế công phu từ nước muối để thay nước mắm. Trên bàn, khi ăn những chủ người Tàu ăn-nói-nhìn luôn nhịp nhàng khéo léo hơn chủ Việt, chốc chốc những cô gái Việt phục vụ bàn được mời cốc bia phải vặn vẹo thụt lùi trước bàn tay sờ mó của những gã đàn ông Tàu trong sự thờ ơ thỉnh thoảng tán thưởng của chủ nhà hàng người Tàu. Hết bàn này đến bàn khác, công việc bưng bê thức ăn của những cô gái này đôi khi cũng lắm tủi nhục nhưng phải luôn miệng cười tươi chào hỏi bằng đôi thứ tiếng. Những ngày này việc một đại gia người Việt khét tiếng giàu có và ăn chơi ở xứ Móng Cái bị công an bắt đã trở thành đề tài trên bàn ăn. Rồi tin những người buôn tiền người Việt bị bắt ở Ðông Hưng cũng gây rúng động giới đổi tiền. Những tin tức phiền toái lại được dẹp qua, thay vào đó các chủ làm ăn bàn tính việc sẽ chọn lô nào trong khu thương mại Móng Cái Plaza đồn rằng của con trai ông Trần Ðức Lương sắp khánh thành sau một thời gian gián đoạn do kinh tế suy thoái. Có gì tốt xấu người ta cứ phơi ra trên bàn ăn vừa có bia hiệu vừa có trà Tàu nghi ngút khói. Còn tôi, chẳng ăn được gì vì nhà hàng không có nước mắm nhưng lại dậy mùi tỏi sống, cũng chẳng quen uống trà nóng thế là loay hoay tính tiền bước ra phố tìm một quán ăn còn gốc Việt, dù nó nằm hút trong con đường nhỏ. Sau chiến tranh biên giới Tháng Hai năm 1979, thị trấn Móng Cái bị tàn phá nặng nề, mãi đến năm 1991, sau khi quan hệ Việt-Trung trở lại bình thường thị sự trao đổi buôn bán qua lại cửa khẩu Bắc Luân ngày càng tăng lên. Thành phố Móng Cái được thành lập ngày 25 Tháng Chín năm 2008 trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của thị xã Móng Cái cũ. Móng Cái cũng như nhiều thành phố vùng giáp biên khác, nhiều cửa hàng, trung tâm thương mại, khách sạn, khu vui chơi giải trí được đầu tư bởi các công ty, tập đoàn lớn của Trung Quốc. Một trong 2 khu giải trí, kinh doanh lớn nhất thành phố trẻ Móng Cái là của của công ty Hồng Vận và công ty liên doanh Hải Ninh-Lợi Lai. Như nhiều nhà đầu tư Trung Quốc khác, 2 công ty này được thuê đất 50 năm với nhiều loại hình kinh doanh như sòng bạc, khách sạn, sàn nhảy, dịch vụ, mua sắm hàng hiệu (nhái), cửa hàng đồ ăn Trung Quốc. Cuối tuần, khách du lịch từ Trung Quốc, Hongkong, Ðài Loan đến Móng Cái nghỉ ngơi rất đông, các nhà hàng, khách sạn cho đến sân golf dường như hoạt động hết công suất. Tất cả tiền đều chảy vào túi chủ Trung Quốc, chẳng có thứ gì của Việt Nam được tiêu dùng, trừ những người phục vụ luôn là người Việt Nam biết hai thứ tiếng. Riêng với Trung Tâm Thương Mại Hồng Vận hiện nay đã bị phía Việt Nam đóng cửa, đình chỉ thi công và hoạt động mà lý do thì bị bịt kín. Ðược biết đây là vụ việc liên quan đến an ninh chính trị, trong thời gian thi công tại Trung Tâm Thương Mại Hồng Vận này phía Trung Quốc đã cho đào đường hầm thông qua biên giới, may mắn là phía Việt Nam kịp thời phát hiện, chẳng ai biết Trung Quốc đã đào đến đâu, Việt Nam xử lý làm sao với cái đường hầm và nghĩ sao về tình bạn hữu nghị Việt-Trung. Vậy mà người ta vẫn không run tay ký quyết định cho phép các dự án của Trung Quốc đóng chiếm các vị trí quan trọng của quốc gia. Phóng sự của Thiên Thư/Người Việt (ngươivietonline) +*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+* “Trung Quốc làm chủ, Việt Nam làm thuê”
Thursday, July 30, 2009 Ngô Nhân Dụng Gần đây chúng tôi mới nói chuyện với một người Việt từng tham dự những cuộc biểu tình trước tòa lãnh sự Trung Quốc để phản đối việc Bắc Kinh thành lập huyện Tam Sa ở đảo Hải Nam; anh đã từng bị công an đuổi bắt. Tôi hỏi đùa một câu vô duyên: Sao, đã biết sợ công an chưa? Câu trả lời của anh thật bất ngờ: Không sợ, vì họ cũng là người Việt cả. Tôi chỉ sợ công an Trung Quốc! Công an Trung Quốc làm gì những người Việt biểu tình ở Hà Nội hay Sài Gòn? Không, họ không cần làm gì cả. Họ chỉ cần theo dõi, ghi chép. Họ sẽ có tên tuổi, địa chỉ, tình trạng vợ con, kế sinh nhai, đường đi lối về hàng ngày của tất cả những người từng nói hay hành động chống quyền lợi Trung Quốc ở Việt Nam. Họ lập một cuốn sổ đen. Khi hữu sự, họ sẽ sẵn sàng. Hình ảnh “cuốn sổ đen” đó đang ám ảnh rất nhiều người Việt yêu nước. Nghe anh bạn nói, tôi ngờ vực không tin. Nhưng nếu quý vị được nghe cả giọng nói bình thản, dửng dưng không xúc động của anh, quý vị sẽ hiểu mối lo sợ này là có thật. Mạng lưới công an Trung Cộng đã hoạt động ở Sài Gòn-Chợ Lớn từ thời Việt Nam Cộng Hòa. Dù bây giờ nó không bành trướng lên tới mức đáng sợ như trên, thì mối lo sợ vẫn có thật. Không lẽ công an Việt Nam cũng cộng tác “chiến lược và toàn diện” với công an Trung Quốc trong mật vụ này hay sao? Gần đây một nhà báo ở Sài Gòn mới bị một đám côn đồ “lạ mặt” hành hung vô cớ. Tình cờ, anh cũng là một nhà báo từng viết trên mạng những bài về đòi bảo vệ chủ quyền Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Anh cũng viết rất nhiều về vụ Bô Xít, và những vụ “tầu lạ” đâm chìm thuyền đánh cá Việt Nam ra biển. Ðám “người lạ” đánh anh nhà báo và đám “tầu lạ” đâm thuyền ngư phủ Quảng Ngãi có liên hệ gì với nhau không? Một điều chúng ta biết chắc là chính quyền Cộng Sản Trung Quốc quyết tâm bành trướng ảnh hưởng không riêng trong vùng Ðông Nam Á mà ra khắp thế giới, ở bất cứ nơi nào trên thế giới có tài nguyên thiên nhiên để khai thác, Trong mục này đã có lần kể chuyện chúng tôi gặp một sinh viên người Congo ở Quảng Châu. Khi nói chuyện với nhau, anh ta bày tỏ nỗi ngạc nhiên không hiểu sao người Trung Quốc sang nước anh nhiều thế. Và họ đi khắp nơi, cả những vùng núi non xa xôi anh không bao giờ nghĩ đến mà họ cũng mò tới. Sau cuộc gặp gỡ đó, tôi đọc một bản tin cho biết hơn 200 nhà kinh doanh Trung Quốc ở Congo mới lén bỏ trốn về nước, để lại hàng ngàn công nhân bản xứ đến đập phá nhà cửa, máy móc, cơ xưởng vì họ không được trả lương! Ðám doanh nhân này là những người Trung Quốc sang Congo khai thác mỏ. Hồi đầu năm 2009 giá nguyên liệu kim khí tụt xuống khắp thế giới, các đại gia Trung Quốc chỉ tính làm ăn chụp giật, thấy lỗ vốn bèn bỏ của chạy lấy người! Hôm rồi, một anh bạn từ Pháp qua chơi kể rằng anh đã đi khắp các nước Phi Châu vì công việc của sở. Tình cờ, anh cũng kể có lần đi đến thăm một chi nhánh của hãng anh ở Côte d'Ivoire, anh tới một thị xã xa xôi hẻo lánh. “Ông biết không? Mình đang bước đi ngoài phố bỗng giật mình thấy một da vàng mặc áo may ô ưỡn cái bụng phệ trên chiếc ghế trước cửa nhà! Ông ấy đang ngồi xỉa răng! Ở giữa cái xứ chỉ thấy toàn mầu da đen, mình tưởng là gặp đồng bào Việt! Hỏi chuyện rồi mới biết ông ấy là một cố vấn cho chính quyền tỉnh, do Bắc Kinh gửi tới! Ông ấy được mang cả gia đình vợ con sang Côte d'Ivoire để làm cố vấn!” Không thể nói chính phủ Bắc Kinh chỉ nhắm riêng vào nước Việt Nam mình khi họ đi tìm các nguồn tài nguyên để khai thác. Trung Quốc đang cần công nghiệp hóa. Họ đi tới bất cứ nơi nào tìm quặng mỏ. Họ vừa bị hụt vụ mua 18% cổ phần trong công ty Rio Tinto ở Úc Châu, bắt người đứng đầu công ty Anh-Úc này ở bên Tầu, gán cho tội “gián điệp.” Ở Trung Ðông các nước Á Rập Hồi Giáo cũng chống Trung Quốc sau vụ đàn áp người Uyghur tại Tân Cương. Dân chúng những nước Trung Á cùng chung gốc Turk (Thổ) đã biểu tình chống Trung Quốc, trong khi Bắc Kinh lo hối lộ chính quyền các nước này để mua dầu lửa và khí đốt. Dù ăn hối lộ, chính quyền các nước này cũng không dám đàn áp dân họ để bênh vực Thiên triều. Ở Algerie có những vụ tập kích đánh vào xe chở người Trung Quốc. Cũng vì vụ Tân Cương cả. Nhu cầu nguyên liệu và nhiên liệu khiến chính quyền Bắc Kinh phải tiếp tục bành trướng, khắp thế giới. Ðó sẽ là hiện tượng quan trọng nhất ở Á Châu trong thế kỷ 21, đặc biệt là trong vùng biển Ðông của nước ta. Vì Ðông Nam Á vẫn là một trọng tâm của tham vọng bành trướng này. Chỉ vì lý do địa dư; đó là những nước láng giềng, nhỏ, còn yếu, và quyền lợi còn khác biệt nhau rất nhiều. Trong các nước ASEAN có nước dân chủ, có nước độc tài, có nước Phật Giáo, có nước Hồi Giáo, có nước độc tài Cộng Sản, có nước độc tài quân phiệt, có nước chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa như Việt Nam, có nước theo Thiên Chúa Giáo như Phi Luật Tân. Tình trạng này khiến ASEAN còn chưa thể liên kết chặt chẽ, và Bắc Kinh thì đã gõ cửa xin vào tham dự, đến năm nay Mỹ mới bước vô. Người Mỹ từng coi Tây Bán Cầu với những nước Châu Mỹ La tinh, là “sân sau” của họ, không muốn cường quốc nào đụng tới. Bây giờ Trung Quốc có thể cũng mong tới ngày cả miền biển Ðông Á và Ðông Nam Á trở thành “cái ao trước cửa” cho họ thả câu. Ðứng về mặt đạo đức, chúng ta lên án tham vọng bá quyền này, của bất cứ quốc gia nào. Trên thực tế, bất cứ chính quyền độc tài một nước lớn nào cũng nuôi những tham vọng như vậy, và có khả năng khích động dân chúng ngả theo khuynh hướng đó. Thế kỷ trước, Nhật Bản đã làm như vậy. Ngay một Ðảng Cộng Sản nho nhỏ của các ông Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ cũng có thời muốn làm bá chủ toàn cõi Ðông Dương kia mà! Cho nên phải coi tham vọng bá quyền của Trung Quốc là một sự thật không thể tránh được, các nước Ðông Á phải đối phó chứ không thể chỉ lên án suông mà thôi. Trong cuộc phỏng vấn của Nhật báo Người Việt, đăng ngày hôm qua, Giáo Sư Carl Thayer đã nói, “Có Hoa Kỳ hiện diện, Trung Quốc không thể múa gậy vườn hoang.” Ðúng như vậy. Các nước Ðông Nam Á đều mong nước Mỹ trở lại vùng này để tạo thế cân bằng với Trung Quốc. Trung Quốc đã lập căn cứ hải quân ở đảo Hải Nam (Thời Tây Hán gọi tên là Châu Nhai và Ðạm Nhĩ) với 6 hàng không mẫu hạm và 20 tầu ngầm nguyên tử. Chỉ có hạm đội Thứ Bẩy của Mỹ đáng vai đối thủ. Nhưng chúng ta đã có dư kinh nghiệm về cả Hoa Kỳ lẫn Trung Quốc. Nước nào cũng chỉ nghĩ tới quyền lợi quốc gia của họ mà thôi. Người Việt Nam không thể trông nhờ vào ngoại lực. Muốn kháng cự được sức bành trướng của hơn một tỷ dânTrung Quốc thì người Việt phải lo lấy nước Việt chứ không thể trông cậy vào ai khác. Trong hai ngàn năm lịch sử tổ tiên chúng ta vẫn sống như vậy, bây giờ cũng không khác. Nhưng dân tộc Việt Nam muốn đủ sức cự địch với sức bành trướng của Trung Quốc nếu chính quyền cũng chứng tỏ quyết tâm bảo vệ chủ quyền dân tộc và toàn dân đoàn kết một lòng kháng cự. Hiện nay chúng ta không thấy những dấu hiệu đó. Ðiều đáng lo ngại đối với dân tộc Việt Nam bây giờ không phải là những đoàn quân Trung Quốc tiến qua biên giới như hồi năm 1979. Phương cách xâm lăng đó đã lỗi thời rồi, mà không cần thiết nữa. Ðiều lo lắng nhất là một kế hoạch “tàm thực,” (tầm ăn dâu), hay nói theo kiểu bà con trong nước, gọi là Diễn Biến Hòa Bình. Cộng Sản Trung Quốc không cần gây chiến với Việt Nam. Họ đang gậm nhấm nước Việt Nam từ từ, như đã gậm dần dần cho tới khi nuốt chửng đất đai của người Uyghur, người Mông Cổ, nước Ðại Lý, nước Tây Tạng. Ngày hôm qua Nhật Báo Người Việt cũng đăng thiên phóng sự viết về chuyến đi thăm miền đất cực Ðông của nước ta, mũi Sa Vỉ, bờ biển Trà Cổ, thành phố Móng Cái, giáp giới Trung Hoa. Ký giả Thiên Thư viết tựa đề: “Trung Quốc làm chủ, Việt Nam làm thuê.” Ðó là “tám chữ vàng” mô tả một sự thật. Có những mảnh đất cho người Trung Quốc thuê 50 năm, còn dài hạn hơn nhiều nông dân Việt Nam chỉ được thuê đất 35 năm. Người Trung Quốc sang mở nhà hàng, khách sạn, sân Golf, và cả cờ bạc, đĩ điếm. Người Trung Quốc làm chủ, người Việt Nam làm thuê. Hai bên cùng có lợi. Các quan chức lợi nhất. Tổng cộng thành 20 chữ vàng, có thể coi là một chính sách, chủ trương lớn của đảng và nhà nước... Trung Quốc! Nếu chưa đọc, xin mời quý vị đọc lại thiên phóng sự này. Nhiều nhà báo trong nước đã kể chuyện và chụp hình những “làng Trung Quốc” ở Việt Nam, từ miền Bắc vào tới miền Trung và Cao nguyên. Nhưng ở thành phố Móng Cái, ở mũi Sa Vĩ, có những trung tâm thương mại Trung Quốc mà người Việt muốn xin việc làm phải nói hai thứ tiếng. Con cháu người Việt khôn ngoan ở đây sẽ biết rằng muốn có tương lai phải học tiếng Quảng hay tiếng Phổ thông. Tiếng đầu lòng con học nói có thể là “Nỉ Hào Ma?” Người bạn ở Sài Gòn đang sợ công an Trung Quốc, anh vẫn tin tưởng rằng anh không cần sợ công an Việt Nam. Vì họ cũng là người Việt như mình cả. Niềm tin đó còn có cơ sở vững chắc hay không? Nhiều người Việt ở Nam California đã nói đùa rằng có ngày Bắc Kinh sẽ đổi tên huyện Tam Sa thành Tứ Sa. Vì ngoài Hoàng Sa, Trường Sa của nước ta, cộng với Tây Sa của họ, họ còn muốn có thêm chữ Sa thứ tư là Bôn Sa (Bolsa) nữa! Trung Quốc sẵn sàng đầu tư sang Bolsa mở nhà hàng, khách sạn, thương xá, cư xá cho người già, khu giải trí, vân vân; chỉ cần lúc nào cũng theo đúng 8 chữ vàng: “Trung Quốc làm chủ, Việt Nam làm thuê.” Nhưng tầm ăn dâu ở Á Châu thì dễ, sang tới Mỹ sẽ khó hơn nhiều. Vì ngay người Hoa và người Việt gốc Hoa ở Mỹ cũng sợ Bắc Kinh xâm nhập. Cho nên dân Bolsa không cần lo. Nếu có một huyện Tứ Sa thì chắc chữ Sa thứ tư sẽ là mũi Sa Vĩ trong tỉnh Móng Cái. Ở Quảng Châu đã có bãi Sa Diện (Mặt Cát, sách thường in nhầm là Sa Ðiện), nay có thêm Sa Vĩ (Ðuôi Cát) nối với nhau như khẩu hiệu “núi liền núi, sông liền sông” từ 50, 60 năm trước! Tám chữ vàng “Trung Quốc làm chủ, Việt Nam làm thuê” không nhất thiết chỉ áp dụng trong các khách sạn, nhà hàng. Tại sao không áp dụng (hợp tác chiến lược và toàn diện), ngay trong hoạt động của ngành công an hai nước? Người Trung Quốc có thể còn muốn áp dụng tám chữ vàng trong tất cả mọi phạm vi, từ trên xuống dưới, như công cuộc trị quốc và bình thiên hạ mà họ vẫn theo đuổi từ thời Tần Hán đến giờ. Trong tâm thức, họ có thể nghĩ đó là sứ mệnh ông Trời đã buộc dân Hán tộc phải thi hành! Người Việt Nam tất nhiên nghĩ khác, hai ngàn năm nay vẫn nghĩ ngược lại. Vậy người Việt Nam phải làm gì? (ngươivietonline)

29.07.09

Bách Việt Trong Lòng Đại Việt

Bách Việt Trong Lòng Đại Việt

Nguyễn Xuân Phước

By HoangHac • Jul 25th, 2009 • Category: Tham Khảo

Để tưởng nhớ Phạm Việt Châu, tác giả “Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh” Lời nói đầu: ...

Lịch sử Đại Việt thời kỳ hậu Hán thuộc ghi dấu sự xuất hiện của một số dòng họ ở Trung Hoa xuống phưong nam lập nghiệp và làm thành đế nghiệp như nhà Tiền Lý, nhà Trần, nhà Hồ và nha Tây Sơn. Bài viết nầy nhằm giải thích hiện tượng nầy và xét lại quan điểm lịch sử của các sử gia trưóc đây. +++ Người Việt chúng ta thường cho rằng mọi hình thức văn hoá và con người phát xuất từ phương bắc của Việt Nam, đặc biệt là từ vùng Hoa Nam của Trung quốc, đều thuộc về Trung Hoa. Chúng ta vẩn gọi chung người Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hải Nam, Hẹ (Hakka) là ngươì Tàu hay người Hoa, kể cả toàn bộ người dân sống ở những vùng này cách đây hàng mấy ngàn năm cũng là người Tầu. Chữ “Tầu” hay “Hoa” hàm ý nghĩa họ là những người khác chủng với dân tộc Việt. Họ là người Trung Hoa, hay ngườì Hán.

Quan điểm nầy trước hết sai lầm về mặt lịch sử và phát triển địa lý của dân tộc và đất nước Việt và Trung Hoa. Lịch sử hình thành của Trung Hoa hiện đại gắn liền với lịch sử xâm lăng lãnh thổ và đồng hoá dân tộc Việt ở phưong nam. Mặc dù trong 60 năm qua, một số nhà nghiên cứu đã nổ lực đặt lại vấn đề văn hoá cũng như lịch sử cổ đại củaViệt Nam, sự thiếu nhận thức về lịch sử ở tầng lãnh đạo đất nước làm cho chúng ta có nhận định sai về nguồn gốc chủng tộc của người Trung Hoa. Sự thể nầy tạo cho Hoa Kiều sống tại Việt Nam một mặc cảm tâm lý chủng tộc khó hội nhập vào cộng đồng dân tộc. Sự nhầm lẩn nầy tạo nhiều bất lợi cho nền kinh tế và văn hoá nước nhà. Bên cạnh đó nước Trung Hoa to lớn về dân số lẫn đất đai không thể nào bỏ qua việc vận dụng thành phần người Hoa sinh sống ở nước ngoài để biến họ thành “khúc ruột ngàn dặm” làm công cụ phục vụ cho chính quyền Hoa Lục.

Quan điểm sai lầm nầy của người Việt đối với người Hoa phát xuất từ quá trình đồng hoá quá lâu của người Hán đối với các dân tộc Bách Việt tại vùng Hoa Nam. Đồng thời nó phát xuất từ những nhận định sai lầm về lịch sử của các triều đại trước đây.

Ngày nay những nổ lực khám phá về lịch sử và địa lý miền Hoa Nam cổ đại, cũng như những nghiên cứu về chủng tộc dựa trên DNA đã chiếu những ánh sáng mới giúp chúng ta đặt lại một số vấn đề cơ bản về chủng tộc và lịch sử. Những nhận định cơ bản nầy sẽ là nền tảng lý luận giúp chúng ta có một cái nhìn hợp lý hơn về sử học nước nhà, một chính sách ngoại giao dựa vào văn hoá đồng chủng với các nước Đông Nam Á và các đảo quốc ở Thái Bình Dương, và một sách lược văn hoá đối với người Hoa đang sinh sống tại Việt Nam.

Địa Lý Bách Việt miền Hoa Nam thời cổ đại

Sự hiện diện của văn minh Bách Việt thời Thương Chu trong lịch sử Trung Hoa được đánh dấu bằng câu chuyện sứ giả Việt Thường ở phương nam đem Bạch Trĩ và Ruà sống ngàn năm để cống dâng cho vua nhà Chu là Chu Thành Vương. Đó là lần đầu tiên sử Trung Hoa ghi nhận dân tộc Việt ở phưong nam.

Địa lý nhà Chu bấy giờ chỉ kéo dài tới sông Hoàng Hà. Đến thời Chiến Quốc, khoảng 500 trước công nguyên, một số dân tộc ở Nam Trung Hoa mới xuất hiện trong sử Trung Quốc. Nổi bật nhất là các nước Sở, nước Ngô và nước Việt.

Đến đời Tần Hán (256-195 TCN), khi các nước Sở, Ngô, Việt bị Tần Thủy Hoàng sát nhập vào Trung Hoa, phía nam nước Sở vẫn còn là chủ quyền của các dân tộc Bách Việt hoàn toàn độc lập và tự chủ. (Xem bản đồ Trung Hoa thời Tần Thủy Hoàng . Như thế cho đến khoảng 195 năm TC, một vùng địa lý to lớn miền Hoa Nam ngày nay là lãnh thổ của các giống dân Việt.

Truyền thuyết cho rằng rằng dân tộc Việt phát xuất từ Động Đình Hồ miền Lĩnh Nam. Sách Lĩnh nam Chích Quái của Trần Thế Pháp ở thế kỷ 15 kể Truyện họ Hồng Bàng như sau:

“Đế Minh cháu ba đời họ Viêm Đế Thần Nông sinh ra Đế Nghi, sau nhân đi tuần về phía Nam đến núi Ngũ Lĩnh lấy được con gái bà Vụ Tiên rồi trở về, sinh ra Lộc Tục. Tục dung mạo đoan chính, thông minh phúc hậu, Đế Minh rất lấy làm lạ, muốn cho nối ngôi mình.

Ngũ Lĩnh là năm rặng núi lớn ở Nam Trung Hoa thuộc miền Lĩnh Nam. Miền Lĩnh nam đưọc sử tây phương viết như sau “Lĩnh nam là vùng đất phia nam của rặng Ngũ Lĩnh gồm các rặng Đại Dũ /Dữu Lĩnh, Kỵ Điền Lĩnh, Đô Bàng Lĩnh, Manh Chử Lĩnh và. Việt Thành Lĩnh. Vùng nầy gồm các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Nam và Giang Tây của Trung Hoa hiện đại. Vùng nầy do dân Bách Việt sinh sống và là tổ quốc của dân Nam Việt cổ đại” (xem http://en.wikipedia .org/wiki/ Jiangxi )

Tác giả Việt Sử Thông Luận cho rằng, sau khi mất bản địa Thái Sơn (tỉnh Sơn Đông, bắc Trung Hoa), Con cháu Thần Nông đã rút quân về Động Đình Hồ để xây dựng căn cứ địa văn hoá mới cho dân Việt. Tướng của Đế Minh là Xi Vưu ở lại giữ Thái Sơn và sau ba năm chiến đấu chống tù trưởng của nòi Hán là Hiên Viên, quân của Xi Vưu tan rã và từ đó, dân Việt mất căn cứ địa văn hoá Thái Sơn. Hiên Viên chiếm đưọc thái Sơn lên ngôi là Hoàng Đế. Ngày nay, dân tộc Việt chỉ còn câu ca dao: “Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” để ghi dấu cái nôi văn hoá đầu tiên của dân Việt.

Khi Lưu Bang cướp ngôi nhà Tần ở phưong bắc, thì ở phương nam, Triệu Đà đã thống nhất được các nước Bách Việt trong đó có cả nước Âu Lạc của tổ tiên chúng ta để lập ra nưóc Nam Việt. Đó là cuộc thống nhất Bách Việt lần thứ nhất. Nhà Triệu truyền ngôi được 4 đời thì bị nhà Hán xâm chiếm và miền Lĩnh Nam bị bắc thuộc từ đó.

Đến thời kỳ Hai Bà Trưng, 40 năm sau công nguyên, Hai Bà đã chiếm lại toàn vùng Hoa nam. Sử viết: “Các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng. Hai bà lấy được 65 thành ở Lĩnh Nam. Trưng Trắc tự lập làm vua, xưng là Trưng Nữ Vương.” Đây là cuộc thống nhất Bách Việt lần thứ hai.

Do đó, khi truy tầm nguồn gốc Bách Việt của dân tộc Việt cần để ý các vần đề sau đây:

- Từ thời cổ đại cho đến khi nhà Triệu mất ngôi (111 TCN), dân tộc Việt đã chiếm lĩnh miền Hoa Nam. Một số nước Việt giáp biên giới với nhà Chu thường được đề cập đến trong sử sách Trung Hoa, đó là Sở (Kinh Việt), nước Việt (với Viêt Vương Câu Tiển), Ngô Việt (với Ngô Phù Sai). Khi nhà Tần thống nhất thiên hạ, các nước Việt trên bị sáp nhập vào nhà Tần. Còn các nước Việt khác như Âu Việt, Mân Việt, Thái Việt, Điền Việt, Lạc Việt, Việt Thường và một số nước Việt khác phiá nam vẫn còn giữ được nền độc lập.

- Cần nghiên cứu thêm nguồn gốc của chữ người Kinh. Cổ sử Trung Hoa dùng chữ “ngưòi Kinh” để nói đến dân tộc Sở và một số dân tộc phía nam sông Hoàng Hà. Tại sao ngày nay ngưòi Việt tự gọi là ngưòi Kinh để phân biệt người Việt với người thuộc chủng tộc khác.

- Cần xem khám phá của Stephen Oppenheimer tác giả Eden in the East: The Drowned Continent of Southeast Asia (Địa Đàng ở Phương Đông: Lục Địa Đông Nam Á Bị Chìm Dưới Đáy Biển) để thấy nền văn minh Hoa Nam trãi dài xuống Đông Nam Á và các hải đảo ở Thái Bình Dương. Các dân tộc như Mân Việt, Ngô Việt, Âu Việt gồm các bộ tộc, Phúc Kiên, Triều Châu, Quảng Đông, Quảng Tây, Hẹ, Hải Nam, Đai Loan, Thái, Nam Dưong và các thổ dân ở vủng đảo Thái Bình Dương đều có nguồn gốc Bách Việt.

Do các dân tộc Bách Việt đã sinh sống ở miền Hoa Nam trưóc khi vùng nầy bị Tần Hán xâm lược, dân Việt phải là chủ nhân ông nền văn hoá thời bấy giờ. Các khám phá khảo cổ về văn minh Hoa Nam trước thời Tần và Hán thuộc phải được coi là chỉ dấu của văn minh Việt, chứ không thể là của Hán tộc. Người Việt cần phải coi đó là di sản của Việt tộc và phải mạnh dạn giành lại chủ quyền văn hoá của mình.

Các nhà nhân chủng học Đài Loan gần đây đã tìm cách phục hồi lại nguồn gốc Bách Việt của ngừời Đài Loan như Phúc Kiến (Minnan, có lẽ là Mân Việt) và Hẹ (Hakka) là hai giống dân đông nhất trên đảo. Hiện nay có nhiều nghiên cứu về DNA đã xác định quan hệ chủng tộc của các dân tộc Bách Việt. Công trình nghiên cứu nguồn gốc chủng tộc dựa vào gen di truyền (DNA) của M. Liu thuộc Mackay Memorial hospital và được Viện Nghiên Cứu Sức Khoẻ quốc gia của Đài Loan tài trợ chứng minh là các giống dân miền Hoa Nam, Việt Nam, Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương có liên hệ gen di truyền khác biệt với chủng tộc Hán ở miền bắc. (http://www.wufi. org.tw/eng/ linmalie. htm).

Những nổ lực của các nhà văn hoá Việt nam hiện đại cùng với những khám mới về nhân chủng học dự vào di truyền học đã chiếu ánh sáng vào lịch sử nòi giống Bách Việt. Ánh sáng lịch sử nầy giúp chúng ta có nhận định sử trung thực hơn. Thông hiểu đưọc lịch sử và văn hoá dân tộc, chúng ta mới có đưọc nội lực làm hành trang cho hành trình dân tộc vào thế kỷ 21.

Vấn đề người Tàu lập đế nghiệp ở Đại Việt

Sau khi đã xác định được địa lý văn hoá vùng Bách Việt chúng ta hãy trở về với một bí ẩn lịch sử của dân tộc ta. Đó là từ nhà tiền Lý (Lý Nam Đế) đến nhà Tây Sơn, một số các các triều vua lớn được sử sách của ta cho là có gốc từ Tàu.

Về Lý Nam Đế, sử gia Trần Trọng Kim viết: “Lý Bôn, có người gọi là Lý Bí, vốn dòng dõi người Tàu. Tổ tiên ở đời Tây Hán phải tránh loạn chạy sang Giao Châu, đến lúc bấy giờ là bảy đời, thành ra người bản xứ.”

Về dòng dõi nhà Trần, Đại Việt Sử Toàn Thư viết về gia phà của vua Trần Thái Tông như sau: “trước kia tổ tiên vua là người đất Mân, (có ngườì nói là Quế Lâm), có người tên là Kinh, đến ở hương Tức Mặc phủ Thiên Tường, sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá. Vua con của Thừa, mẹ họ Lê … (ĐVSKTT tr 159)

Về Hồ Quí Ly, Đại Việt Sử Ký toàn Thư viết: “Quý Ly, tự là Lý Nguyên, tự suy tổ tiên là Hồ Hưng Dật vốn ở Chiết Giang, đời Hậu Hán, thời Ngũ Quí sang làm thái thú Diễn Châu.” (ĐVSKTT tr 293).

Về nhà Tây Sơn, Việt nam Sử Lược của Trần Trọng Kim viết: “Nguyên tổ bốn đời của Nguyễn Nhạc là họ Hồ, cùng một tổ với Hồ Quí Ly ngày trước…” (VNSL Trần trọng Kim tr. 144).

Như thế thì có ít nhất là bốn triều đại như Tiền Lý, Trần, Hồ, Tây Sơn đều là người gốc ở phương bắc và xuống phương nam lập nên đế nghiệp.

Phải chăng những vị lập nên các triều đại nầy là người Hán?

Để giải đáp bài toán lịch sử nầy chúng ta phải xét lại hiện tượng phục hoạt của Việt tính hay ý thức Việt hay căn cước Việt tộc ở các triều đại nói trên.

SỰ PHỤC HOẠT CỦA VIỆT TÍNH TRONG THỜI KỲ BẮC THUỘC

Từ khi cuộc kháng chiến chống quân Hán xâm lược của Lữ Gia và Triệu Dương Vưong thất bại (111 TCN) đất Nam Việt bị nhà Hán chiếm đóng và danh xưng Việt đã bị linh lạc bởi quá trình đô hộ và đồng hoá. Từ thời kỳ Hán thuộc trở đi, danh xưng Việt đã biến mất trong các sách sử của Trung Quốc, và được thay thế bằng hai chữ An nam và Giao Chỉ.

Khoảng cách thời gian giữa Lữ Gia và Lý Bôn là hơn 650 năm. Tại sao khi Lý Bôn (544) lên ngôi ông lấy đế hiệu là Nam Việt Đế? Ý thức Việt trong đế hiệu đó ở đâu ra?

Lịch sử chiếm đóng miền miền Lĩnh Nam của nhà Hán đi liền với những nổi dậy của dân tộc Việt và những cuộc đàn áp khốc liệt. Suốt hai ngàn năm, địa danh Lĩnh Nam biểu tượng cho tinh thần chống lại Hán hoá. Ngưòi dân miền nầy đưọc gọi là “Lục Lương” hay “Cường Lương” nghĩa là dân cứng cổ. (theo Lê Văn Siêu và Lý Đông A).

Khi sử gia Trần Trọng Kim viết: “ Tổ tiên (Lý Bôn) ở đời Tây Hán phải tránh loạn chạy sang Giao Châu.” người đọc sử phải hiểu rằng “Loạn” là những cuộc nổi dậy của dân bản địa nổi lên đánh đuổi chính quyền đô hộ phương bắc. Những ngưòi dân thường chạy loạn thì trở về quê cũ khi hoà bình đưọc tái lập. Ở đây tổ tiên Lý Bôn chạy loạn mà phải bỏ xử đi luôn, đi tận đến đất Giao Chỉ cách đó cả ngàn dặm đề lập nghiệp. Như thế thì tổ tiên không phải là hạng dân thưòng. Chúng ta có thể suy diễn rằng, tổ tiên Lý Bôn là những ngưòi lãnh đạo phong trào kháng chiến và họ đã phải bỏ xứ chạy trốn để tránh sự trừng phạt của triều đình sau khi cuộc kháng chiến thất bại.

Đây là lý do hợp lý nhất để giải thích sự kiện dòng họ Lý Bôn đã đi về phương Nam. Khi đã định cư ở Âu Lạc, dòng họ nầy vẫn ấp ủ tinh thần Phục Việt từ thế hệ nầy qua thế hệ khác. Chỉ bằng sự xác định được quan hệ giữa Bách Việt và Lý Bôn chúng ta mới hiểu được tại sao ý thức Việt đã được phục hoạt trong phong trào độc lập của nhà Tiền Lý. Nếu nói “Lý Bôn là dòng dõi người Tàu” như sử gia Trần Trọng Kim viết, thì e rằng chúng ta không giải thích được hiện tượng phục hoạt danh xưng Việt ở thời kỳ đó.

Đặc biệt là thời kỳ Lý Trần là thời kỳ cực thịnh của văn hoá Việt. Câu hỏi có thể đặt ra là nếu họ Trần có gốc Tàu thì tại sao họ Trần phải phục hưng văn hoá Việt?

Hay như trong hịch Tây Sơn của đức Quang Trung Hoàng đế kêu gọi : “đánh cho được để tóc dài, đánh cho được nhuộm răng đen, đánh cho nó chích luận bất phản, đánh cho nó phiến giáp bất hoàn, đánh cho sử tri Nam Quốc anh hùng chi hữu chủ”. Nếu cho rằng Quang Trung mang dòng máu Tàu thì tại sao ông đòi đánh Tàu để dân tộc Việt được giữ gìn tục để tóc dài, ăn trầu, nhuộm răng đen, để cho bọn Tàu biết là nước Nam nầy là có chủ. Và khi đã diệt được quân xâm lược ngài đã yêu sách đòi nhà Thanh phải trả lại miền Lưỡng Quảng, tức là vùng Lĩnh nam thời cổ đại, là đất cũ Nam Việt của Triệu Đà, và lãnh thổ nước ta thời hai BÀ Trưng?

Chỉ có một câu trả lời hữu lý duy nhất là ông tổ của các dòng họ như Lý Bôn, Trần Thừa, Hồ Quí Ly và nhà Tây Sơn là những người thuộc giòng giống Bách Việt. Những gia đình nầy là dòng dõi nòi giống “cường lương” ở miền Lĩnh nam. Họ đã thất bại trong những lần nổi dậy chống quân xâm lược phương bắc và đã lui về phương nam tìm đất sống. Họ đã hoà nhập vào văn hoá Âu Lạc, Lạc Việt và Việt Thường để trở thành người dân địa phương. Họ đã cùng với các dòng tộc Việt địa phương nuôi duỡng ý chí Phục Việt âm thầm dưới đáy tầng quốc dân từ đời nầy qua đời khác để lấy ý thức dân tộc làm sức mạnh kháng cự tham vọng của Hán tộc để bảo tồn văn hoá và giành lại độc lập cho dân tộc Việt.

Bách Việt trong Lòng Đại Việt

Nói tóm lại, lịch sử tồn tục và tiến hoá của dân tộc Việt là hành trình lui dần về phương nam trước sự lớn mạnh của Hán tộc để bảo tồn nòi giống.

Từ thời cổ đại, dân tộc Việt đã mất Thái Sơn là cái nôi văn hoá đầu tiên. Sau khi Thái Sơn bị Hoàng Đế xâm chiếm, con cháu Thần Nông đã rút về Đông Đình Hồ vùng Lĩnh Nam để xây dựng lại căn cứ địa văn hoá lần thứ hai. Khi Lữ Gia thất trận, các dân tộc Bách Việt thuộc nước Nam Việt đã chạy vê Phong Châu ở phương nam hội nhập vào Âu Lạc để xây dựng lại căn cứ địa văn hoá thứ ba. (Xem Việt Sử thông Luật của LĐA, và Dịch Kinh Linh Thể của Kim Định)

Đây là lý do khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa các dân tộc Bách Việt thuộc 65 thành ở Lĩnh nam đã hưởng ứng. Địa lý chính trị thời kỳ Hai Bà chính là vùng Lĩnh Nam và nước Nam Việt cũ. Mặc dầu cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng thất bại, công cuộc thống nhất Bách Việt của Hai Bà đã tái hợp Bách Việt. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà đã cho các dân tộc Bách Việt và các gia đình vọng tộc ở miền Hoa Nam niềm hy vọng phục hoạt nòi giống. Vùng đất Âu Lạc với những địa linh như Phong Châu, Mê Linh và những nhân kiệt như Hai Bà Trưng và Bà Triệu, và những danh tướng trong đoàn quân kháng chiến, đã nêu tấm gương yêu nước và là niềm hy vọng cho nòi giống Bách Việt.

Bên cạnh đó sự xuất hiện của Phật Giáo như là một hệ thống triết học và văn hoá trong thời kỳ nầy đã tạo nên một sức mạnh văn hoá mới được dân Việt nhanh chóng tiếp thu, và đã giúp cho dân Việt có chổ dựa tinh thần và vật chất. Về tinh thần, Phật Giáo hoà nhập vào văn hoá dân tộc để chống lại quá trình Hán hoá. Về vật chất, chùa chiền trở thành những trung tâm nối kết và vận động lịch sử từ miền Ngũ Lĩnh xuống đến tận Việt Thường. Luy Lâu (Bắc Ninh) trở thành trung tâm Phật Giáo miền Hoa Nam. Các tổ sư Mâu Bác, Huệ Năng đưa Phật giáo tới đỉnh cao của thiền học. Võ thuật cũng được phát triển mạnh mẽ vùng Lĩnh Nam trong thời kỳ nầy. Do đó, chúng ta thấy bên cạnh những phong trào kháng chiến thời Hán thuộc đều có bóng dáng của những cao tăng. Và trong thời kỳ độc lập, các thiền sư như Ngô Chân Lưu, Khuông Việt và Vạn Hạnh đã đóng một vai trò tích cực trong việc phục hồi văn hoá dân tộc và xây dựng đất nước. Nhờ những định chế văn hoá mới dưới hình thức tôn giáo nầy các dân tộc Bách Việt ở Âu Lạc đã tụ họp với nhau, bảo lưu được văn hoá và lịch sử dân tộc, và nuôi dưỡng được ý chí phục Việt.

Chiến Lược Phục Hoạt Văn Hoá Bách Việt Sau gần một nghìn năm bị nòi Hán đô hộ, hai triều đại Lý-Trần, khởi đi từ Lý Nam Đế, đã phục hưng và phục hoạt lại nền độc lập và văn hóa Việt, xây dựng một nước Đại Việt hùng mạnh suốt gần 500 năm.

Ngày nay đất nước ta đang bước vào thế kỷ thứ 21. Sự lớn mạnh của Trung Hoa ngày nay hiện đang là mối đe doạ cho sự tồn vong của dân tộc. Vấn đề biên giới, lãnh hải, lãnh thổ giữa hai nước vẩn chưa ổn định và sẽ là mầm mống mâu thuần trong tương lai và cho thế hệ mai sau. Vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa vẫn là mối ưu tư hàng đầu của mọi người Việt còn thao thức với đất nước.

Trong bối cảnh đó, xác định được tiến trình lịch sử và văn hoá Bách Việt và quan hệ chủng tộc giữa người Việt và các dân tộc miền Hoa Nam là tiền đề cho một sức mạnh tinh thần để đối phó với nước láng giềng phương bắc. Để khai quật được sức mạnh tinh thần nầy, Người Việt cần có một suy nghĩ mới và một chính sách văn hoá mới đối với các nước đồng chủng trong vùng và đối với Hoa Kiều đang định cư tại Việt Nam.

Cái cơ sở nền tảng để khai quật được sức mạnh tinh thần Bách Việt hiện đại là ý thức rằng dân tộc Việt ngày nay là dân tộc thừa kế chân truyền di sản văn hoá Bách Việt ngày xưa. Và di sản văn hoá và văn minh Bách Việt cổ xưa đã được lưu giữ và bảo tồn trong trong quá trình hình thành nước Đại Việt và Việt Nam hiện đại. Với ý thức đó, người Việt hiện đại phải có cái nhìn mới về lịch sử nước nhà, phải mạnh dạn xác định sự đóng góp của các dòng họ Bách Việt trong quá trình hình thành lịch sử và văn hoá nước nhà. Đồng thời chúng ta phải hãnh diện xác nhận rằng: dân tộc Việt hiện đại là dân tộc kế thừa và là chủ nhân ông di sản văn hoá Đại Bách Việt.

Từ cơ sở đó, người viết đề nghị ba sứ mạng văn hoá như sau:

Thứ nhất, cần phải nhanhc hóng có một nghiên cứu sử chính thức và học trình sử để chính thống hoá giá trị văn hoá Bách Việt trong sự hình thành văn hoá Việt Nam ngày nay.

Thứ hai, phái có một chính sách hợp tác văn hoá đối với các nước đồng chủng ở Á Châu, đặc biệt là vùng Đông nam Á.

Thứ ba, phải có một quan niệm mới đối với người Hoa hiện đang ở Việt Nam.

Sự xác định tính đồng chủng của các dân tộc Hoa Nam và Đông Nam Á có chung huyết thống Bách Việt như các nước Đông Nam Á, các dân tộc miền Hoa Nam và Đài Loan và sự tái kiến thiết văn minh Bách Việt, sẽ là đối lực thích hợp đối với tham vọng về lãnh thổ, lãnh địa và văn hoá của Trung Hoa. Từ nhận định đó, chúng ta phải có một chính sách ngoại giao mới đối với các nước Đông Nam Á. Ngoài vai trò kinh tế, chính trị và quân sự, ASEAN sẽ có một vai trò văn hoá mới Ý thức đồng chủng sẽ giúp cho ASEAN mở rộng vòng tay để đón Đài loan và các đảo quốc ở Thái Bình Dương nhằm mở rộng không gian Bách Việt mới và để gây sức mạnh tinh thần trong liên minh các nước ở vùng Biển Đông.

Vấn đề quan trọng hơn là khi đã nhận diện được tính đồng chủng Bách Việt, người Việt trong nước và hải ngoại phải có một quan niệm mới và sách lược mới về Hoa Kiều ở Việt Nam.

Đối với thành phần Hoa Kiều xuất xứ từ Hoa Nam hay Lĩnh Nam như người Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Đài loan, Hải Nam, v.v. trước hết người Việt chúng ta cần phải chấm dứt não trạng xem họ là những người Tầu, ngườì Trung Hoa hay người Hán. Chúng ta phải coi họ là người Bách Việt, người Lĩnh Nam. Họ là nạn nhân lâu đời của quá trình Hán hoá. Nhiệm vụ của đất nưóc và dân tộc Việt ngày nay là phải tái đồng hoá và tái hội nhập họ vào cộng đồng văn hoá Bách Việt hiện đại.

Công tác văn hoá chủ yếu đối với thành phần Hoa Kiều nầy là giúp họ ý thức được họ là dòng dõi Bách Việt. Chúng ta phải giúp cho các dân tộc miền Lĩnh Nam phục hồi được lịch sử Việt để cho dòng máu Việt bắt đầu chảy lại. Chúng ta phải giúp họ ý thức rằng mọi dân tộc xuất phát từ miền Bách Việt-Lĩnh Nam đều là ngươì gốc Việt như chúng ta. Những người Hoa vùng Hoa Nam trưóc đây sẽ trở lại với nguồn gốc chân chính của họ là người Bách Việt.

Từ đó, một cộng đồng dân tộc dân tộc Việt mới sẽ được hình thành. Và cộng đồng dân tộc mới nầy sẽ có sức mạnh văn hoá chất chứa 5,000 năm của Đại Bách Việt và một vùng địa lý văn hoá trãi rộng từ Hoa Nam xuống tận Đông Nam Á. Sức mạnh văn hoá mới đó có khả năng hoá giải tham vọng lãnh thổ lãnh hải và văn hoá của Trung Quốc hiện nay trên đất nước ta và các nước trong vùng Biển Đông.

Kết luận

Hồn sử là sự tồn tục và tiến hoá của dân tộc trên sự thành lập của nòi giống. Cái ý thức của tổ tiên khai sinh ra nòi giống tạo thành cái quốc túy dân tộc. Do đó, quốc hồn và quốc túy của một dân tộc là thành tố gốc của lịch sử. Một dân tộc mất quốc hồn và quốc túy là một dân tộc sẽ bị lịch sử đào thãi. Mọi con người, mọi triều đại khi cầm nắm vận mệnh đất nước nếu không nắm giữ được quốc hồn và quốc túy sẽ bị lạc đường lịch sử và đưa đất nước vào tình trạng vong thân. Vì thế, những phong trào chống xâm lăng đều lấy ý thức dân tộc làm động lực lịch sử và lấy văn hoá thủy chuẩn dân tộc làm nền tảng nội dung cho sứ mệnh cứu nước. Ý thức lịch sử nầy đã thúc đẩy Lý Thường Kiệt viết tuyên ngôn “Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư” thời kỳ Phá Tống Bình Chiêm; Trần Hưng Đạo viết Hịch Tướng Sĩ thời kỳ Kháng Nguyên; Nguyễn Trãi viết BìnhNgô Đại Cáo và bộ Địa Dư Chí, Quang Trung viết hịch tướng sĩ với những dòng chữ “Đánh cho đưọc để tóc dài”; giúp cho Phan Bội Châu viết Việt Nam Quốc Sử Khảo; và Lý Đông A viết bộ Việt Sử Thông Luận trong thời kỳ chống Pháp.

Ý thức dân tộc vượt lên mọi định kiến về văn hoá kinh tế và chính trị. Ý thức dân tộc tồn tại qua mọi không gian, thời đại và triều đại. Nó nằm trong lòng mỗi một người dân. Nó phủ định mọi tư duy phủ nhận văn hoá dân tộc. Nó phủ định mọi nổ lực xử dụng văn hoá dân tộc ở mức độ hình thức để phục vụ cho nền văn hoá ngoại bang ở nội dung. Tìm về cội nguồn chính là quá trình tìm lại hồn sử.

Suốt một ngàn năm bị bắc phương đô hộ và đồng hoá, ý thức dân tộc vẫn nằm ẩn tàng trong đáy tầng của quốc dân. Nó được bảo quản và lưu truyền từ đời nầy qua đời khác. Nó là cái gen di truyền lịch sử làm cho giòng máu Lạc Hồng tiếp tục chảy, và chảy mãi xuyên suốt thời đại.

Khi nền cai trị của ngoại bang suy yếu, khi tâm thức nô lệ ngoại bang ở mặt tầng suy sụp, ý thức dân tộc từ đáy tầng sẽ bùng dậy như những đợt sóng đáy, thúc đẩy những người yêu nước đứng lên giành lấy quyền làm chủ đất nước, làm chủ vận mạng của mình để phục hồi văn hoá thủy chuẩn dân tộc, để bảo tồn và phát huy ý thức dân tộc, và để khơi dậy nguồn sống cho dân tộc.

Với tâm thức đó, lịch sử có được một Lý Bôn với một dòng họ bôn ba từ miền Lĩnh Nam nổi trôi về miền Âu Lạc, và ông đã đứng lên giành độc lập cho dân tộc, lấy đế hiệu là Nam Việt Đế, đặt tên nước là Vạn xuân.

Sự việc Lý Bôn làm tái sinh danh xưng Việt với đế hiệu là Nam Việt Đế là một hành động lịch sử khởi động cho nền văn hoá Bách Việt được hồi sinh để nền văn hoá Bách Việt còn lưu truyền mãi trong lòng dân tộc Đại Việt; và từ đó Đại Việt đã trở thành căn cứ địa phục hoạt và phục hưng nền văn minh Bách Việt.

Nguyễn Xuân Phước

Tham khảo:

· Các tác giả: Lý Đông A, Trần Ngọc Thêm, Cung Đình Thanh, Phạm Việt Châu, Lê Văn Siêu, Đào Duy Anh, Stephen Oppenheimer, Keith Weller Taylor, National Geographics, Trần Thế Pháp, Kim Định, Trần Trọng Kim, Đại Việt Sử Ký · Google search: “Bách Việt, Lĩnh Nam, Linnan, Yueh, bǎi yuè, Lý Nam Đế, Lý Bôn, Quang Trung, Việt Sử, Taiwanese DNA, betel taiwan, Hoàng Đế, Suy Vưu, miêu, miao”

Các bài HoangHac đã đưa lên

21.07.09

Cuộc biểu tình của người Hoa-Việt tại Quảng Đông

Mô hình Trung Quốc
21-07-2009

Cuộc biểu tình của người Hoa-Việt tại Quảng Đông

Ariana Eunjung Cha, DCVOnline lược dịch YINGDE ‒ Cuộc biểu tình dẫn đến bạo động của người Hồi Giáo Uighur ở Tân Cương vào đầu tháng Bảy không phải là cuộc bạo động duy nhất gần đây của những sắc dân ít người tại Trung Quốc. Tháng Năm vừa qua, tại Anh Đức (Yingde) thành phố lịch sử phía bắc tỉnh Quảng Đông một cuộc biểu tình của nông dân người Hoa đã ở Việt Nam (nạn kiều trong cuộc chiến biên giới 1979, người Việt gốc Hoa) cũng đã bị đàn áp dã man. Theo lời tuyên bố của các viên chức địa phương thì một số dân làng đã tấn công đồn công an vào trưa ngày 23 tháng Năm. Công an đã buộc phải tự vệ bằng gậy gộc, chó, bình xịt hơi cay, bom ngạt và vòi rồng. Thế nhưng, theo người dân làng, đa số là người Hoa gốc Việt, thì sự việc xảy ra hoàn toàn khác hẳn. Sự việc bắt đầu với 30 phụ nữ đứng tuổi, khoảng từ 50 đến 60, đến đồn công an biểu tình một cách ôn hoà. Vài ngày trước đó, bốn người đại diện cho bà con nông dân đã than phiền về việc chính quyền chiếm thu đất đai của họ bị và họ đã bị bắt giữ. Các phụ nữ, dân làng đã biểu tình chỉ nhằmyêu cầu chính quyền thả thân nhân của họ. Vài giờ đồng hồ sau, đoàn biểu tình đã lên đến mấy ngàn người. Có người ủng hộ, nhưng cũng có người chỉ là khách qua đường tò mò đứng lại xem. Và thế là cả trăm xe công an từ các thành phố lần cận rầm rộ kéo về và thẳng tay đánh đập đoàn người không phân biệt ai là ai.
Biểu tình ở Anh Đức, Quảng Đông Nguồn: iReport
Những nông dân biểu tình ở Quảng Đông vốn là người Việt gốc Hoa đã trở lại Trung Quốc vào những năm 1978-1979. Khi họ đang sinh sống bằng nghề trồng rau và trà thì chính quyền đã trưng dụng đất đai của họ, bán cho những người đầu tư từ Đài Loan nhưng không bồi hoàn xứng đáng. Những người Hoa đã từng sống ở Việt Nam này nói rằng dù họ đã cố gắng hết sức để chứng tỏ thiện chí hòa nhập với xã hội mới, như bắt con cái của họ phải nói tiếng Hoa thay vì nói tiếng Việt, thì họ vẫn bị kỳ thị hết sức cay nghiệt. Thí dụ, trong lần lũ lụt năm 2006, người Hoa-Việt chỉ nhận được 5 ký lô gạo, trong khi người Hán thì được tới 50 ký lô, nhiều hơn gấp 10 lần. Một ví dụ khác là những con đường nơi người Hoa-Việt sống thì không được tráng nhựa như những con đường trong khu đông người Hán ở. Trong các công xưởng, người Hoa-Việt cũng bị chủ xưởng và các công nhân người Hán khinh rẻ. Họ khó kiếm được việc làm xứng đáng. Ông Chen Ruixiang, một người Hoa-Việt tâm sự: “Chính quyền không giúp đỡ chúng tôi chỉ vì chúng tôi là “người Việt gốc Hoa”. Chúng tôi nghèo và thất học, vì thế không ai được làm trong các cơ quan nhà nước. Chính quyền biết chúng tôi là một nhóm người cô thế.” Trong ngày xảy ra cuộc xung đột, bà Chen Ajiao, một y sĩ trong làng nói rằng bà và một người bạn, cũng là một phụ nữ lớn tuổi, đã đứng ở hàng đầu trong đoàn biểu tình. Một người công an đã tiến đến và dùng gậy xáng mạnh vào đầu người bạn của bà ngã xuống bất tỉnh. Khi nhìn thấy các phụ nữ bị đánh đập tàn nhẫn những người đứng quanh đó đã hết sức phẫn nộ. Họ cầm gạch, đá, gậy tre, ... bất cứ thứ gì có thể làm vũ khí và xông vào đám công an và đánh trả lại. Vài người còn lấy xăng từ các xe máy gần đó ném vào các xe lính rồi châm lửa đốt. Từ Tây Tạng, Quảng Châu rồi đến Tân Cương, nhà cầm quyền Bắc Kinh đang ngày càng phơi bày sự thật về thái độ của họ với những dân tộc ít người. Mỗi cuộc bạo động có những nguyên nhân riêng, nhưng tất cả đều có một mẫu số chung: Sự căng thẳng trong các quan hệ xã hội của một quốc gia có trên 56 sắc tộc nhưng pháp luật Trung Quốc luôn luôn tỏ ra thiếu công bằng với các sắc dân thiểu số.

Nguồn: Flare-Ups of Ethnic Unrest Shake China's Self-Image, By Ariana Eunjung Cha, Washington Post Foreign Service, Sunday, July 19, 2009

16.07.09

Chặt cầu để tiến lên - TS Vu Minh Khuong

Chat cau de tien len cua TS Vu Minh Khuong (2)

Người viết có lòng; bài nhận định khúc chiết, r ràng và khoa học. Đại đa số trong và ngoài nước đều có thể đồng ý, kể cả thành phần lảnh đạo.

Nhưng chặt cầu để tiến lên làm sao được trong cơ chế hiện nay ? có lẽ đây là lý do Nhât Bản đã và đang đặt dấu hỏi về Chính phủ Việt Nam.

Đề tài nên suy gẩm: làm gì đây để giúp VN chặt cầu ?

Tuan VietNam 13/07/2009 06:21 (GMT+7)

http://www.tuanvietnam.net/vn/tulieusuyngam/7468/index.aspx

(Nhưng đã bị rút xuống)

Việt Nam: Chặt cầu để tiến lên?

TS Vũ Minh Khương (TuanVietNam) - Nghĩ về đất nước thấy trách nhiệm, nhìn ra thế giới thấy ước mơ. Bài viết của TS. Vũ Minh Khương nhằm thể hiện dũng khí của người Việt ta trong giai đoạn đầy thử thách hiện nay.

Chuyện xưa kể rằng: Trong một trận đánh quyết liệt có tính sống còn, nhưng quân sĩ cứ lui dần, lui dần đến bờ sông. Để thể hiện ý chí quyết tâm, các vị tướng đã quyết định chặt đi cây cầu duy nhất để không còn đường rút. Sau đó, khi giặc đến, tất cả đều hét vang xông lên can trường chiến đấu với ý chí vô song. Trận đánh thắng lợi và quyết định của các vị tướng khi đó đã trở thành một bài học lịch sử cho sự phát triển.

Dựa trên tích cổ này, trong một bài viết, TS. Vũ Minh Khương đã chọn tựa đề: Việt Nam: Chặt cầu để tiến lên? nhằm thể hiện dũng khí của thế hệ người Việt Nam chúng ta hôm nay. Tuần Việt Nam xin trân trọng giới thiệu bài viết đầy tâm huyết này để mọi người cùng suy ngẫm.

I. Định lượng nỗi đau dân tộc

Mỗi con người khi thấy dân tộc mình ở vào vị thế thấp kém so với tiềm năng đều mang trong mình một nỗi đau. Nỗi đau này dù không ai giống ai hoàn toàn và không thể đo đếm chính xác. Thế nhưng, nó cũng có thể ước định được ở một chừng mực nhất định. Dưới đây là một phương cách đơn giản.

Mỗi người hãy tự trả lời bốn câu hỏi sau:

1. Chúng ta có thấy xót xa hổ thẹn về vị thế hiện nay của dân tộc mình không?

2. Chúng ta có thấy lo lắng cho tương lai của đất nước mình không?

3. Nếu có cơ hội, thế hệ chúng ta có đủ sức đưa dân tộc mình đến một vị thế vẻ vang (hơn mức hiện nay rất nhiều) không?

4. Cơ chế hiện thời có cho bạn làm được điều mà bạn hết lòng khao khát làm cho đất nước mình không?

Với mỗi câu hỏi, câu trả lời “có” được điểm 1 và câu trả lời “không” được điểm 0. Theo cách này, nỗi đau dân tộc của mỗi con người được đo bằng tổng số điểm của ba câu hỏi đầu trừ đi điểm của câu hỏi 4. Ví dụ, người mà câu trả lời là “có” cho cả ba câu hỏi đầu và “không” cho câu hỏi 4 sẽ có mức đau bằng 3 (1+1+1-0=3); đó là nỗi đau ở mức tột cùng. Trái lại, người mà câu trả lời là “không” cho cả ba câu hỏi đầu và “có” cho câu hỏi 4 sẽ có mức đau bằng -1 (0+0+0-1= -1); trong trường hợp này, người trả lời không có nỗi đau gì và thấy rất hài lòng với hiện tại.

Trong tập thể hàng triệu người, mức đau này có thể khác nhau, nhưng có lẽ, nhiều người cùng chia sẻ một cảm nhận là mức đau trung bình của hàng triệu người Việt chúng ta cũng không thấp hơn quá xa so với mức tột cùng nói trên. Người viết bài này mong rằng quốc hội và ban chấp hành trung ương Đảng khi có dip hội họp có tổng hợp và báo cáo với quốc dân đồng bào nỗi đau này của mình. Nếu mọi người thấy không đau mà lại từ hào vì thấy dân mình được “xếp hạng hạnh phúc hàng đầu thế giới”[1] thì cũng là điều đáng suy nghĩ lắm.

II. Định lượng nguy cơ mất nước

Một thước đo khác có tính cấp bách hơn là về nguy cơ mất nước. Người xưa gợi ý ba thước đo về nguy cơ mất nước của một quốc gia:

1. Thứ nhất, người trên sai mà quan chức dưới đều nín lặng.

2. Thứ hai, người được giao trọng trách không thấy việc mình đảm nhận là thiêng liêng và gian khó mà lại coi đó là đặc quyền đặc lợi để vinh thân, phì gia, và kết bè kéo cánh hưởng lộc.

3. Thứ ba, người người đua chen, từ quan đến dân, lao vào các làm ăn chụp giật và vụ lợi cá nhân trong sự xem thường đạo lý và sự tê liệt lòng tin vào công lý.

Theo người xưa, nếu điều 1 là đúng thì nước này đang ở vào thế suy vi; nếu điều 2 là đúng thì nước này sẽ khốn khó trong sự chia rẽ lục đục; nếu điều 3 là đúng thì nước này sắp loạn. Nếu cả ba điều trên đều đúng thì nước mất đến nơi rồi.

III. Tính thế nước ta và đôi điều trăn trở

Ai đã sống ở nước Nhật chắc đều ấn tượng về sự sâu sắc và cẩn trọng trong hành xử của dân tộc này. Họ đã làm nên những điều kỹ vĩ trong cải cách Minh Trị trong nửa cuối thể kỷ 19 và sự vươn lên kỳ diệu từ đống tro tàn sau thế chiến thứ Hai.

Điều đặc biệt đáng nói là Nhật bản đã đang là quốc gia có sự đồng cảm và giúp đỡ Việt Nam nhiều nhất trong công cuộc phát triển vừa qua. Thế nhưng, dường như sự kỳ vọng cao của họ về một dân tộc Việt Nam có thể so sánh được với Hàn quốc hay Nhật bản có lẽ đang tắt dần. Quan sát động thái hợp tác của Nhật bản với nước ta có thể giúp chúng ta thấy phần nào cảm nhận của bè bạn thế giới về tương lai của nước Việt chúng ta.

Năm 2006, tại Tokyo, Nhật bản và Việt Nam có tuyên bố chung rất long trọng và ấn tượng khẳng định hai bên cam kết xây dựng mối quan hệ đối tác chiến lược[2]. Viện trợ của Nhật bản cũng từ đó tăng lên. Thế nhưng, Việt nam, khác với những quốc gia và vùng lãnh thổ có công cuộc phát triển kỳ vĩ (như Hàn quốc hay Đài loan), viện trợ nhiều lên không làm chất lượng thể chế tốt của chúng ta tôt lên, mà trái lại sa sút trong sự so sánh với thế giới (hình 1). Đáng buồn hơn nữa, tháng 12 năm 2008, Nhật bản thông báo tạm ngừng viện trợ cho Việt Nam vì vấn đề tham nhũng và tin này công bố rộng rãi khắp thế giới.[3]

Hình 1. Việt Nam: Viện trợ Nhật bản và chất lượng thể chế

Nguồn: số liệu về ODA Nhật bản (khoản cho vay) từ bộ ngoại giao Nhật bản; số liệu về hiệu lực chính phủ từ Ngân hàng Thế giới.

Ví dụ trên cho thấy sự sa sút của chúng ta không phải do ai chống phá mà ở chính do sự yếu kém và vô cảm của hệ thống của chúng ta trước công cuộc phát triển của dân tộc.

Trong thực tế hiện nay, chúng ta không thể trách cứ điều này cho cá nhân cụ thể nào mà phải thấy đây là “lỗi hệ thống” như nhiều người đã từng nêu ra. Bản chất của lỗi hệ thống là sự khủng hoảng về hệ thức tư duy[4]. Nguyên nhân gốc rễ của sự khủng hoảng này là do những định đề và thiết kế tổ chức kiểu cũ đã trở thành lực cản cho quá trình nhận thức của tư duy và cải biến của xã hội sang khung thức vận hành mới.

Nếu hệ thống quản trị xã hội không chủ động tạo sự chuyển dịch có tính hồi sinh sang khung thức phát triển mới thì xã hội chắc chắn sẽ trải qua giai đoạn khủng hoảng trong sự suy tàn của hệ thống cai trị hiện thời. Trái lại, nếu hệ thống biết chủ động nắm bắt qui luật, mạnh dạn bước vào công cuộc hồi sinh thì nó có thể bước vào trạng thái khởi phát (xem Bảng 1 dưới đây).

Bảng 1. Đặc trưng Hệ thống trong Lựa chọn Chuyển đổi: Suy tàn hay Khởi phát

Tiêu chí

Suy tàn

Khởi phát

Tầm nhìn

Bị che mờ bởi hào quang quá khứ và sự lú lẫn của tư duy cũ được gia cường bởi lợi ích cá nhân và phe nhóm.

Hướng về khát vọng tương lai chia sẻ sâu sắc bởi mọi tầng lớp nhân dân. Đó là ước mơ đời đời thúc dục, người người khao khát.

Chiến lược

Mơ hồ; chủ yếu xoay sở để giữ ổn định bằng cách gia cường các chốt hãm tạo bởi những định đề có từ quá khứ.

Dựa trên sự trỗi dậy của nguyên khí dân tộc trong tầm nhìn thời đại và ý thức trách nhiệm với tương lai.

Phong cách lãnh đạo

Sự vụ, đối phó, né tránh sự thật.

Khơi dậy sự phấn khích của toàn dân bằng hoài bão lớn, phẩm chất hiến dâng, sự trân trọng từng con người, và khả năng qui tụ hiền tài.

Văn hóa tổ chức

Mọi người, dù là có chức vụ cao đều thấy không có quyền lực.

Trong đáy lòng, thực tế không còn những giá trị thiêng liêng để tôn thờ. Ngậm miệng ăn tiền.

Hệ thống không ghi nhận đóng góp hay qui trách nhiệm cho các nhân về mỗi nỗ lực thực hiện.

Ai ai cũng thấy trách nhiệm và khả năng đóng góp của mình vào sự nghiệp chung.

Mọi người đều chia sẽ những giá trị thiêng liêng gắn với tiền đồ và danh dự dân tộc

Vai trò cá nhân được đặc biệt coi trọng. Mỗi mặt trận đều có vị tướng lĩnh xuất chúng.

Vận hành của hệ thống

Thụ động, thúc thủ, thậm chí tê liệt (trên bảo dưới không nghe)

Có định hướng mạnh mẽ vào các mục tiêu chiến lươc; sáng tạo, cộng hưởng, và hợp tác gắn bó.

Hệ thống thông tin

Mập mờ, sai lệch, thậm chí bị ém nhẹm, dấu diếm

Minh bạch, chính xác, có hệ thống với chất lượng và khả năng tiếp cận ngày một nâng cao với sự phản hồi và đóng góp chặt chẽ của công dân.

Sử dụng nguồn lực

Phung phí, dàn trải.

Luôn cảm thấy thiếu hụt tài chính và nguồn lực vật chất; trong khi coi thường giá trị con người.

Vô thức trong việc lãng phí tài nguyên và vay nợ nước ngoài.

Tiết kiệm, chiến lược, và tập trung trong sử dụng nguồn lực.

Trọng dụng người tài để nguồn lực luôn đến dồi dào, sinh sôi và phát huy mạnh mẽ.

Chỉ dùng đến tài nguyên và nợ nước ngoài cho những mục tiêu đặc biệt chiến lược và tính thấu đáo mọi hậu quả của nó.

IV. Làm gì để vượt lên

Không ít bè bạn đã có thời tin rằng, Việt Nam là một dân tộc có tinh thần quật khởi và là một ứng viên làm nên những kỳ tích phát triển ở nửa đầu thế kỷ 21. Trong thế kỷ 21 này, động lực cho sự phát triển thần kỳ chỉ có thể có được nếu ba điều kiện sau hội đủ:

1- Toàn dân tộc đồng tâm trong khát vọng vươn lên sánh vai các dân tộc vẻ vang của thời đại. 2- Hiểm họa an ninh quốc gia ngày càng gay gắt. 3- Hệ thống chính trị nhận thức được lòng dân là ánh sáng mặt trời và văn minh nhân loại là qui luật của trời đất. Trong nhận thức đó, lãnh đạo phải là người có thể ngẩn cao đầu đón ánh mặt trời của lòng dân và lái con thuyền dân tộc vượt qua biển cả trong sự thuận hòa của qui luật trời đất.

Kinh nghiệm của Indonesia với thắng lợi vang dội của tổng thống Yudhoyono trong cuộc bầu cử toàn dân đầu tháng 7 vừa rồi là điều đáng suy nghĩ. Ông được đánh giá là đã làm xuất sắc cương vị tổng thống trong năm qua (2002-2009) với nỗ lực ấn tượng trong củng cố nền móng phát triển của Indonesia và chương trình chống tham nhũng với lời nói và hành động nhất quán và mạnh mẽ. Cũng nhờ vậy mà trong mấy năm qua, Indonesia đã vượt lên từ sự sa sút sau sụp đổ của chính quyền độc tài Suharto và trở thành quốc gia tăng trưởng nhanh nhất trong các nước Đông Nam Á trong những tháng đầu năm 2009. Cũng trong bối cảnh dân chủ sống động, ở Malaysia, Thủ tưởng mới Najib nhận được sự đồng thuận cao của người dân (65% tín nhiệm) sau 100 ngày cầm quyền nhờ những cải cách đặc biệt ấn tượng.

Trong nỗ lực cải cách hệ thống ở Việt Nam, với xu thế tất yếu hướng tới một nền dân chủ do dân và vì dân, chúng ta trước hết cần đặ biệt chú ý áp dụng một số cải tiến kỹ thuật, tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa cực kỳ then chốt. Dưới đây là hai ví dụ nhỏ.

1- Lưu trữ và minh bạch thông tin lịch sử

Trong bối cảnh không dễ dàng đổi thay một cơ chế hay một hệ tư duy, việc lưu trữ và minh bạch thông tin lịch sử có tác dụng quan trọng.

Bài học này có từ kinh nghiệm của tổng thống Abraham Lincoln khi ông còn là một luật sư. Khi đó nước Mỹ có luật là người lớn không thể đòi khoản nợ mà người vị thành niên vay mình. Điều luật này lập tức bị nhiều nhiều thiếu niên lạm dụng: họ vay tiền rồi từ chối trả nợ. Nhiều chủ nợ cay đắng chấp nhận vì luật pháp không ủng hộ họ.

Trong tình thế này, luật sư Linhcon cũng không có cách nào khác để giúp thân chủ của mình đòi nợ ngoài việc đề nghị tòa án lưu giữ hồ sơ là cậu thiếu niên này đã quịt nợ và ghi rõ cậu đó sẽ không bao giờ được coi là người lớn nếu không trả món nợ này. Lo sợ về đề xuất này được thực hiện, cậu thiếu niên này và gia đình đã vội vã xin trả món nợ và tình trạng quịt nợ kiểu này từ đó không còn nữa.

Bài học này cho thấy, con người ta sẽ thường chỉ có hành vi lạm dụng khi trốn lủi được sự phán xét. Do đó, chúng ta đề nghị có đạo luật để Đảng, Quốc hội, Nhà nước, và Chính phủ phải lưu trữ thật tốt mọi luận bàn và quyết định quan trọng về chính sách phát triển và bổ nhiệm nhân sự để toàn xã hội được biết trong một thời hạn sớm nhất có thể. Khi đó, ai đề xuất hay quyết định những việc gì, dù tốt đẹp cho dân cho nước hay làm hại dân hại nước; dù đề bạt người hiền tài hay nâng đỡ kể tham nhũng sẽ đều được sự phán xét nghiêm minh của lịch sử.

2- Lựa chọn và đánh giá lãnh đạo dựa trên phân loại khoa học

Việc lựa chọn cán bộ lãnh đạo và chủ chốt có ý nghĩa sống còn với công cuộc phát triển. Công việc hệ trọng này nên dựa trên một sự phân loại khoa học, có hệ thống. Tối thiểu cần dựa trên hai tiêu chí: Phẩm chất hiến dâng và Tư duy cải cách. Trên mỗi tiêu chí, cho điểm từ 1 đến 5 (1=rất thấp so với mức trung bình; 2=thấp hơn mức trung bình; 3=mức trung bình; 4=cao hơn mức trung bình; 5=vượt xa mức trung bình).

Để lựa chọn người cho một bầu cử chính thức, một tổ chức (dù là Đảng, Quốc hội, hay Chính phủ) nên có phân loại khoa học theo hai tiêu chí trên. Ví dụ: (i) Ban Chấp Hành Trung ương đánh giá về các ủy viên Bộ Chính trị hiện tại hoặc các ủy viên dự kiến cho khóa tới; (ii) Quốc hội đánh giá các bộ trưởng và các vị giữ trọng trách cao hơn.

Hình 2: Phân loại và đánh giá cán bộ chủ chốt

Tổng hợp đánh giá của cả tập thể về một cán bộ chủ chốt sẽ cho phép phân loại cán bộ theo hình vẽ 2 nêu trên.

Theo đó, chỉ người có mức điểm trung bình cao (nghĩa là trên 3,0) trên cả hai tiêu chí: “Phẩm chất hiến dâng” và “Tư duy cải cách” (ô I) mới được lựa chọn vào bầu cử cho các cương vị cao như ủy viên bộ chính trị hay hay bộ trưởng và các vị trí cao hơn. Đảng và Quốc hội nếu muốn có lòng tin của dân cần công khai các chỉ số này cho cán bộ chủ chốt ở cả Trung ương và địa phương.

Theo đánh giá của nhiều người, có nhiều cán bộ chủ chốt của ta ở ô III (có năng lực nhưng cơ hội, tham nhũng) và ở ô IV (vụ lợi cá nhân, bảo thủ). Điều đặc biệt đáng nói là cách đánh giá này không chỉ xác đáng còn tạo động lực để mỗi cán bộ đều tự rèn luyện và tốt hơn lên. Mục tiêu cuối cùng của chúng ta là, tất cả những ai được đứng trong hàng ngũ lãnh đạo, thậm chí chỉ là cán bộ trong bộ máy nhà nước, đều phải ở ô I với độ tin cậy cao của toàn dân về phẩm chất hiến dâng và tư duy cải cách.

V. Thay lời kết

Khó khăn trong quyết định của mỗi người chúng ta hôm nay không phải là làm cách gì để đất nước tiến lên mà là ở làm gì để chúng ta không lùi tiếp nữa bởi đường lùi của chúng ta còn rộng rãi thênh thang lắm.

Ông cha chúng ta để lại cho chúng ta đất đai ở vị thế đẹp và nhiều tài nguyên quí giá. Thế giới lại thương cảm chúng ta đã trải qua những cuộc chiến tranh khốc liệt. Thế hệ chúng ta chỉ cần cho nhượng thuê đất trong các dự án đầu tư dễ dãi, bán tài nguyên, và vay nợ quốc tế cũng đủ sống xêng xang được 20-30 năm nữa. Ta nhượng đất của ông cha làm sân gôn và dân ta sẽ không thể đói nhờ nghề nhặt bóng và đánh giày. Mỗi chúng ta, dù sao hãy cùng trả lời một câu hỏi day dứt: Dân tộc Việt Nam ta hôm nay có đủ lòng quả cảm “Chặt cầu để tiến lên” không?

• TS. Vũ Minh Khương (Đại học Quốc gia Singapore) ________________________________________ [1] Tổ chức New Economic Foundation vừa đưa ra xếp hạng chỉ số hạnh phúc năm 2009, trong đó Việt Nam xếp hạng 5. Điểm tốt của cách xếp hạng này là khuyến khích các nước tiêu dùng ít vật chất hơn. Điểm hạn chế là phương pháp dễ gây ngộ nhận cho các nươc nghèo. Thứ nhất, họ dùng khảo sát mức độ hài lòng với cuộc sống thực hiện năm 2005 (nghĩa là 5 năm trước đây) và khảo sát này chủ yếu dựa vào một nhóm nhỏ người sống ở thành phố. Thứ hai, họ chia chỉ số hài lòng cho lượng vật chất tiêu dùng; nói một cách nôm na, chỉ số hài lòng của người Mỹ là 8 nhưng vì họ đi ô tô nên chỉ số hạnh phúc của họ thấp hơn Việt Nam với chỉ số hài lòng là 6,5 nhưng đi xe máy. [2] “Japan-Vietnam Joint Statement: Toward a Strategic Partnership for Peace and Prosperity in Asia”; October 19, 2006; Ministry of Foreign Affair, Japan; URL: http://www.mofa.go.jp/region/asia-paci/vietnam/joint0610.html, xem ngày 11/07/2009. [3] “Japan Suspends Aid to Vietnam, Citing Corruption”; URL: http://www.bloomberg.com/apps/news?pid=20601080&sid=aTIhAZGLZ2Ko&refer=asia, xem ngày 11/07/2009 [4] Xem thêm Elgin, D. (1977), "Limits to the management of large complex systems", Assessment Of Future National and International Problem Areas, Stanford Research International, Palo Alto, CA.

________________________________________

Các Tin khác:

Links vựơt tưng lua²: (copy đia chi² trang web múôn vào, và passt lìên sau cái links vựơt tưng lưa² và cho vào đia chi² trang Internet Explore hay vào đia chi² cua MozillafireFox, thì có thê² vào trang web bi. tưng lưa² ngăn chn môt cách thoai² mái):

http://anonymouse.org/cgi-bin/anon-www.cgi

- GS Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh: BIÊN CƯƠNG MỚI

Thông báo về sự thành công và tiếp nối của dự án in, phát áo miễn phí tại Việt Nam

- T Tân Cương đm máu đê'n Viêt-Nam chô'ng Tàu Cô.ng

- Viêt-Nam và bàn tay lông lá cua² Tàu Cô.ng

- la.y trời cho gío ni lên

- tuyên² tâ.p t do trên biên² máu

- tù công san² đô' ai không cơi

- Mặt Thật Hồ Chí Minh (<== bâm' vào đây đê² xem Video Clips) ==> http://www.vietland.net/main/showthread.php?s=0b6ee4813194ea4aef4dcc96481f8948&t=7798

- Ts Nguyễn Ngọc Sẳng: TRUNG QUỐC, CHÍNH SÁCH DI DÂN VÀ LẤN CHIẾM BIÊN GIỚI

- Huỳnh Bửu Sơn, Người Giữ Chìa Khóa Kho Vàng Tại Ngân Hàng Quốc Gia VNCH

15.07.09

Thêm môt tàu đánh cá bị đâm chìm trong Biên Ðông vào trưa ngày 15.07

"Tàu lạ" tấn công ngư dân Việt Nam, 7 người bị thương

Sáng nay, tàu cá của ông Đặng Nam ở Quảng Ngãi đang đánh bắt trên vùng biển giữa Quy Nhơn và Phú Yên, cách đất liền khoảng 200 km, đã bị một tàu lạ đâm chìm. Thuyền trưởng tàu bị nạn chỉ kịp phát tín hiệu cấp cứu.

Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Quảng Ngãi cho biết, tín hiệu cấp cứu được các tàu đánh cá xung quanh vị trí tàu ông Nam nhận được vào lúc 1h30 sáng 15/7. Lúc đó tàu của ông Nam đang ở trong vùng biển lãnh hải Việt Nam. Trên tàu có 9 thuyền viên.

Vụ đâm tàu đã khiến 7 ngư dân bị thương, trong đó có hai người bị thương nặng. Các thủy thủ đã kịp bám vào những vật dụng làm phao nổi trên biển khi tàu chìm. Tàu đánh cá của ông Huỳnh Bẻo đang thả lưới gần đó nhận tín hiệu cấp cứu kịp chạy đến cứu sống toàn bộ thuyền viên trôi dạt.

Ngay sau đó, ông Bẻo đã dùng Icom liên lạc báo khẩn cấp cho Đài Duyên hải miền Trung (Đà Nẵng) và Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ngãi để có giải pháp cứu hộ.

Chiều nay, tàu đánh cá cứu hộ trên đường từ ngoài khơi quay về đất liền, thông tin qua điện đàm cho biết sức khỏe các ngư dân bị thương đã ổn định. Dự kiến sáng 16/7 tàu sẽ về đến Quảng Ngãi.

Hiện tung tích "tàu lạ" đâm chìm tàu Việt Nam chưa được xác định!

Trí Nguyễn

*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*

Thêm một tàu đánh cá bị đâm chìm trong Biển Đông

Thêm một tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam bị một tàu lạ đâm chìm trên biển Đông vào trưa ngày 15 tháng 7.

Tàu b nn mang s hiu QNg 2203 ca ngư dân Qung Ngãi.

Ông Đinh Văn Chc, Trưởng phòng Phi hp Tìm kiếm cu nn ca Trung tâm Phi hp Tìm kiếm cu nn Khu vc 2, cho biết, mt tàu đánh cá khác, mang s hiu QNg 2416 đã cu được 9 thuyn viên ca tàu QNg 2203.

C 9 thuyn viên ca tàu b nn đu b thương, trong đó có hai thuyn viên b thương rt nng. Theo d kiến, ngày 16 tháng 7, tàu QNg 2416 mi vào ti đt lin.

Hi gia tháng 5, đã tng có mt tàu đáng cá ca ngư dân Qung Ngãi b tàu l đâm chìm trên bin Đông. Sau khi b chìm, 26 thuyn viên b nn đã bơi sut đêm trên bin cho đến khi được mt tàu đánh cá khác vt.

Bin Đông đang tr nên hết sc nguy him đi vi ngư dân Vit Nam. Ngoài vic b tàu l đâm chìm, mt s tàu đánh cá còn b hi quân Trung Quc bt gi, đòi np tin pht.
***********************************************

Thursday, July 9, 2009

Ai bán ai thương nước Việt đây? Hà Nội khéo dư nước mắt khóc người phương xa!!!

KHÓC HOÀNG SA 1 Lỡ bước tha hương lạc đến đây Ngàn phương tình nước vẫn phơi bày Xa xôi viễn xứ không quên nước Ly cách quê hương mãi nhớ mây Thoang thoảng đâu đây hồn Mẹ Việt Thì thầm trong gió lá lìa cây! Anh linh nước Việt đâu ai nỡ Đem hiến Hoàng Sa… đông biệt tây. NGUYỄN HOÀNG LINH (Hoàng Diệu 68-75) KHÓC HOÀNG SA 2 Ai bán ai thương nước Việt đây? Ngàn năm bia miệng sẽ phơi bày Công khai tuổi trẻ mong đòi đất Núp ló cáo chồn bị bứt mây Hải chiến,* anh-hùng đền nợ nước Khéo che, “đồng phạm” thẹn ngàn cây Hoàng Sa Đông Thổ dâng Trung-Cộng Cõng rắn, rước voi, có kém Tây? NGUYỄN HOÀNG LINH (Hoàng Diệu 68-75) ...đem đá theo để ướp cá , nào ngờ bị tàu cộng bắn giết nên dùng đá ướp xác đem về ..thân nhân người bị nạn Hà Nội khéo dư nước mắt khóc người phương xa!!! Ông khóc Xít-ta-lin…. Bố khóc Bác Hồ…. Giờ Con cháu khóc Mai Cồ Jackson!!! Tuổi trẻ Hà nội lần đầu Được phép rơi lệ khóc một người Không phải là Đao phủ thủ! Ôi Thủ đô đầy ắp tình người! Việt Nam không phải con người, nên không ai khóc Việt Nam ! Dù Việt Nam đang bị lũ chó rừng Trung quốc Nó vồ, nó xé, nó nhai, nó nuốt trửng, Từ Bản Giốc, Nam Quan đến Hoàng Sa, Trường Sa, Từ ngư dân Quảng Ngãi đến nông dân Đắc Nông, Lâm Đồng, Hỡi ôi con cháu Bác Hồ!!! Nước mất chẳng khóc, khóc Mai Cồ phương xa. Khóc Michael Jackson tại HaNoi 1 Khóc Michael Jackson tại HaNoi 2 Khóc Michael Jackson tại HaNoi 3 Khóc Michael Jackson tại HaNoi 4 Khóc Michael Jackson tại HaNoi 5